Cuộc khủng hoảng xã hội Cuộc_khủng_hoảng_tại_Venezuela

Khủng hoảng lương thực

Theo "Khảo sát điều kiện sống hàng năm" của Venezuela (ENCOVI), gần 75% dân số cho biết họ đã giảm trung bình ít nhất 8,7 kg trong năm 2016 (19,4 lb) do [25] và 64% cho biết họ đã giảm 11 kg (24 lbs) trong năm 2017 do thiếu lương thực thực phẩm [121][127]. Khi giá dầu tăng cao, Venezuela trở nên phụ thuộc vào nhập khẩu thực phẩm và một khi giá dầu giảm, chính phủ không thể đủ khả năng nhập khẩu. Theo Al Jazeera, sau khi giá xăng dầu giảm, chính phủ buộc phải phân phối lương thực thực phẩm cho người dân theo khẩu phần, người dân Venezuela đã phải dành cả ngày dài xếp hàng chờ đợi. Các bệnh viện nhi khoa chứa đầy những đứa trẻ bị suy dinh dưỡng, và nhiều người trước đó thuộc tầng lớp trung lưu giờ đây phải lục tìm các thùng rác công cộng để kiếm thức ăn do thực phẩm trở nên quá khan hiếm [128].

Thực phẩm bị thiếu hụt khiến nhiều người dân Venezuela phải giết cả những loại động vật nuôi như chó, mèo, lừa, ngựachim bồ câu để lấy thịt, một số loại động vật hoang dã cần được bảo vệ như chim hồng hạcthú ăn kiến khổng lồ cũng đã bị giết để làm thức ăn [129].

Tham nhũng là một vấn đề lớn trong việc phân phối thực phẩm. Theo một giám đốc hoạt động tại một doanh nghiệp nhập khẩu thực phẩm của Venezuela, "Giờ đây bạn thậm chí phải trả một khoản tiền cho quân đội để xem xét hàng hóa của bạn. Đó là một chuỗi hối lộ liên tục kể từ lúc tàu của bạn cập bến cho đến khi thực phẩm được đưa ra khỏi xe tải" [92][128].

Các bác sĩ tại 21 bệnh viện công trên khắp 17 tiểu bang của Venezuela nói với các nhà điều tra của tờ New York Times năm 2017 rằng "các phòng cấp cứu của họ đã bị tràn ngập bởi những đứa trẻ bị suy dinh dưỡng nghiêm trọng. Hàng trăm người đã chết" [130].

Tội phạm

Tỉ lệ tội phạm tại Venezuela từ 1998 đến 2016

Tội phạm bạo lực, đặc biệt là giết người, được coi là "mối quan tâm lớn nhất" của người Venezuela trong cuộc khủng hoảng. Theo Đài quan sát Bạo lực Venezuela, đã xảy ra 27.875 vụ giết người ở Venezuela trong năm 2015, tỷ lệ khoảng 90 vụ trên 100.000 người (so với tỉ lệ 5 vụ trên 100.000 người ở Hoa Kỳ và 30 vụ trên 100.000 người ở Brazil). Đã có 23.047 vụ giết người xảy ra trong năm 2018, tỷ lệ là 81,4 vụ trên 100.000 người [131]. Theo tạp chí The New Yorker thì Venezuela chính là nước có tỉ lệ tội phạm bạo lực cao nhất thế giới". Ít hơn hai phần trăm các trường hợp giết người được báo cáo bị truy tố [132]. Theo Thời báo Los Angeles: "Trước đây những tên trộm [ở Venezuela] thường sẽ chỉ cướp bạn. Còn giờ chúng chắc chắn sẽ giết bạn" [133]

Di cư

Người tị nạn Venezuela đang ngủ trên đường phố tại Colombia

Cuộc di cư ồ ạt của hàng triệu người Venezuela đến các nước láng giềng trong cuộc khủng hoảng đã được coi là "nguy cơ cho toàn bộ khu vực" [33]. Hàng triệu người dân Venezuela đã rời khỏi đất nước trong thời kỳ cầm quyền của cả tổng thống Chávez và tổng thống Maduro [134][135]. Vào tháng 11 năm 2018, Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn (UNHCR) và Tổ chức di cư quốc tế (IOM) cho biết số người tị nạn Venezuela đã lên tới con số 3 triệu, hầu hết những người tị nạn này đã chạy đến các nước Mỹ Latinh khác và các quốc gia vùng Caribbean [136]. Tình trạng này hoàn toàn trái ngược với tỷ lệ nhập cư cao của Venezuela trong thế kỷ 20. Di cư đã được thúc đẩy bởi sự sụp đổ của nền kinh tế, sự kiểm soát ngày càng chặt chẽ hơn của nhà nước đối với nền kinh tế, tỉ lệ tội phạm cao, tỉ lệ lạm phát cao, tình trạng bất ổn, và nỗi vô vọng về một sự thay đổi của chính phủ [134][137]. Tập đoàn PGA ước tính có hơn 1,5 triệu người Venezuela di cư ra nước ngoài từ năm 1999 đến năm 2014 [134] đến năm 2015 con số này lên tới 1,8 triệu người [138][139]. Trong 6 tháng đầu tiên của năm 2018, ước tính mỗi ngày có tới 5.000 người dân Venezuela rời bỏ đất nước [140].

Năm 1998, chỉ có 14 người Venezuela được cấp phép tị nạn tại Hoa Kỳ, trong khi đến tháng 9 năm 1999, 1.086 người Venezuela đã được cấp tị nạn theo Sở Nhập tịch và Di trú Hoa Kỳ [141]. Làn sóng di cư đầu tiên của Venezuela là những người dân Venezuela giàu có thuộc tầng lớp thượng lưu hoặc trung lưu rời bỏ đất nước do lo ngại với những lời hứa của Chavez về việc "lấy của cải người giàu chia cho người nghèo" [142]. Một bức điện được gửi vào tháng 5 năm 2002 từ Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Caracas đến các cơ quan tại Hoa Kỳ đã bày tỏ sự ngạc nhiên về số lượng người Venezuela cố gắng nhập cư vào Hoa Kỳ, trong đó bức điện cũng khẳng định tình trạng này có thể có tác động đáng kể đến tương lai của Venezuela [143].

Số lượng người Venezuela rời bỏ đất nước đã tăng đáng kể trong những năm cuối cùng của nhiệm kỳ tổng thống của Chávez và đặc biệt là trong nhiệm kỳ tổng thống của Nicolás Maduro [144]. Làn sóng di cư thứ hai này bao gồm những người dân Venezuela thuộc tầng lớp thấp hơn chịu thiệt hại trực tiếp từ cuộc khủng hoảng kinh tế mà đất nước đang phải đối mặt; do điều kiện kinh tế tồi tệ, tình trạng khan hiếm lương thực và thuốc men, và tỷ lệ tội phạm bạo lực gia tăng [142]. Theo ước tính của các học giả nghiên cứu về cuộc di cư này, ước tính chỉ riêng trong năm 2016, hơn 150.000 người Venezuela đã di cư ra nước ngoài, tờ New York Times tuyên bố rằng đây là con số "cao nhất trong hơn một thập kỷ" [142]. Người Venezuela đã di cư ra nước ngoài theo nhiều cách khác nhau, mặc dù hình ảnh những người Venezuela chạy trốn khỏi đất nước bằng đường biển cũng đã dẫn tới nhiều so sánh mang tính biểu tượng với cuộc di cư của người dân Cuba [142]. IOM cho biết hơn 1,6 triệu người Venezuela đã rời khỏi đất nước kể từ năm 2015 [145].

Nhiều người Venezuela đã vượt biên qua các nước láng giềng. Hội Chữ thập đỏ Colombia đã dựng lều nghỉ ngơi với thức ăn và nước uống bên đường cho người tị nạn Venezuela [146]. Nhiều người dân Venezuela cũng di cư vào phía bắc Brazil [146], nơi UNHCR đã thiết lập 10 nơi trú ẩn để chứa hàng ngàn người tị nạn Venezuela [146].

Sức khỏe

Các bác sĩ Venezuela biểu tình trên đường phố thủ đô Caracas

Sau cuộc Cách mạng Bolivar, chính phủ của Tổng thống Hugo Chavez đã thiết lập một hệ thống chăm sóc sức khỏe miễn phí với sự hỗ trợ của các chuyên gia y tế tới từ Cuba. Tuy vậy Chávez đã hoàn toàn thất bại trong việc cải thiện hệ thống chăm sóc sức khỏe cho người dân Venezuela. Những năm sau đó, chính phủ đã liên tục giảm chi tiêu cho hệ thống chăm sóc sức khỏe, trong khi tình trạng tham nhũng thì tràn lan không thể kiểm soát nổi. Hệ quả là rất nhiều người dân Venezuela đã phải chịu cái chết từ những căn bệnh hoàn toàn có thể chữa được do sự thiếu hụt nghiêm trọng các loại thiết bị và dụng cụ y tế cùng với đó là sự di cư của rất nhiều chuyên gia y tế sang các nước khác [147][148].

Sự phụ thuộc của Venezuela vào hàng hóa nhập khẩu và tỷ giá hối đoái phức tạp do Hugo Chávez khởi xướng đã dẫn đến tình trạng thiếu hụt thuốc men và các loại thiết bị khám chữa bệnh ở hầu hết các bệnh viện của Venezuela vào cuối những năm 2000 và đầu những năm 2010. Aspirin, insulin, vitamin, bao cao su, thậm chí băng y tế cũng dần trở nên ngày một khan hiếm. Tờ Foreign Policy nhận định: "Hệ thống chăm sóc sức khỏe miễn phí đang biến thành cơn ác mộng đối với Venezuela". Aurelia Loudres, một bà mẹ 28 tuổi ở làng El Consejo bên ngoài La Victoria, cho biết:" Bác sĩ sản khoa nói với tôi rằng tôi phải bỏ tiền ra để mua găng tay cao su cho [anh ấy] và các y tá, cùng với gạc, băng và thuốc kháng sinh... Bác sĩ của tôi nói rằng bệnh viện đã hết sạch và tôi phải có trách nhiệm chuẩn bị tất cả những thứ đó" [148]. Đến năm 2010, Chính phủ đã ngừng công bố các số liệu thống kê y tế [149]. Trong suốt nhiệm kỳ tổng thống của Chávez, Bộ Y tế Venezuela đã thay đổi bộ trưởng nhiều lần. Theo một quan chức cấp cao của Bộ Y tế Venezuela, các bộ trưởng luôn trở thành vật tế thần mỗi khi có vấn đề về sức khỏe cộng đồng phát sinh ở Venezuela. Các quan chức của Bộ Y tế cũng sẽ sẵn sàng thực hiện các hành vi bất hợp pháp để làm giàu cho bản thân, chẳng hạn như đem giao bán các loại thuốc men và vật tư y tế [148]. Vào tháng 2 năm 2014, các bác sĩ tại Bệnh viện Đại học Y khoa Caracas đã phải ngừng thực hiện các ca phẫu thuật do thiếu dụng cụ, mặc dù vào thời điểm đó có gần 3.000 người đang cần phẫu thuật [150].

Vào đầu năm 2015, tại các bệnh viện của Venezuela, chỉ có 35% số giường bệnh có thể dùng được và 50% phòng mổ không thể hoạt động do thiếu các loại dụng cụ cần thiết. Vào tháng 3 năm 2015, một tổ chức phi chính phủ của Venezuela, Red de Medicos por la Salud, đã báo cáo rằng 68% các loại dụng cụ phẫu thuật và 70% các loại dược phẩm thiết yếu đang bị thiếu hụt ở Venezuela [148]. Vào tháng 5 năm 2015, Liên đoàn Y tế Venezuela cho biết có tới 15.000 bác sĩ đã rời khỏi hệ thống chăm sóc sức khỏe của nước này bởi tình trạng thiếu thuốc men, thiếu trang thiết bị và mức lương quá thấp. Vào cuối năm 2015, một báo cáo của chính phủ chỉ ra rằng trong số những người dân Venezuela đến khám chữa bệnh ở các bệnh viện công trong năm đó, có tới 1/3 số người đã chết [151]. Năm 2016, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh đã tăng 30,12% so với năm trước đó, lên tới 11.466 ca tử vong. Tỉ lệ tử vong của các bà mẹ tăng 65,79% với 756 ca tử vong và tỉ lệ mắc bệnh sốt rét tăng 76,4% lên 240.613 trường hợp [152].

Vào năm 2015, một cuộc thăm dò cho thấy tình trạng thiếu hụt thực phẩm và lạm phát đã vượt qua tội phạm bạo lực để trở thành mối lo ngại hàng đầu của người dân Venezuela. Theo giám đốc điều hành của cơ quan thăm dò Datanalisis là Luis Vicente Leon thì tình trạng bạo lực triền miên đã làm khổ người Venezuela trong quá nhiều năm trời khiến cho họ giờ đây đã trở nên quen với nó và không còn hy vọng về một giải pháp cho nó [153]

Bất chấp mối đe dọa về các cuộc biểu tình bạo lực xảy ra trên khắp Venezuela, trẻ em bị ảnh hưởng nhiều về mặt tâm lý do cuộc khủng hoảng kinh tế hơn là do tình trạng bạo lực. Abel Saraiba, một nhà tâm lý học và là thành viên của một tổ chức bảo vệ quyền trẻ em đã nói rằng "Những đứa trẻ của chúng tôi từ khi còn rất nhỏ đã phải suy nghĩ xem làm thế nào để sinh tồn", và một nửa số khách hàng trẻ tuổi của Abel đã phải điều trị tâm lý kể từ khi khủng hoảng diễn ra. Đáng buồn hơn, nhà tâm lý học của Tổ chức Trẻ em Amerita Protección (Fundana) là Ninoska Zambrano tiết lộ rằng, rất nhiều trẻ em dưới 18 tuổi tại Venezuela đã rơi vào tình cảnh khốn cùng đến nỗi phải đi bán dâm thì mới có được cái ăn [154].

Vào năm 2018, các báo cáo cho thấy tỷ lệ tự tử đã gia tăng nhanh chóng ở Venezuela do những tác động của cuộc khủng hoảng đối với cuộc sống của rất nhiều dân thường. Năm 2017, tỷ lệ tự tử ở người cao tuổi tại Venezuela tăng 67% trong khi tỷ lệ này tăng 18% ở trẻ vị thành niên.[155]

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Cuộc_khủng_hoảng_tại_Venezuela http://www.lanacion.com.ar/1684248-maduro-insiste-... http://www.cbc.ca/news/multimedia/mangoes-fill-the... http://www.aljazeera.com/news/2017/01/venezuela-mi... http://bancaynegocios.com/los-principales-causas-d... http://www.bloombergview.com/articles/2015-01-02/n... http://www.businessinsider.com/venezuela-colombia-... http://news.chosun.com/site/data/html_dir/2018/05/... http://edition.cnn.com/2013/03/06/business/venezue... http://edition.cnn.com/2013/11/20/world/americas/v... http://www.economist.com/node/21526365